https://jmpm.vn/index.php/jmpm/issue/feedTạp chí Y Dược học Quân sự2025-11-07T00:00:00+00:00Journal of Military Pharmaco-medicinetcydhqs@vmmu.edu.vnOpen Journal Systems<p>Học viện Quân y là cơ sở đào tạo đại học, sau đại học ngành Y Dược duy nhất trực thuộc Bộ Quốc phòng với 3 nhiệm vụ chính trị trung tâm là đào tạo cán bộ quân y các cấp, đội ngũ nhân viên y tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; điều trị và nghiên cứu khoa học, đặc biệt về lĩnh vực y dược học quân sự; không ngừng phấn đấu với vị trí của một trong những trường đại học y dược hàng đầu của Việt Nam, trường Đại học trọng điểm Quốc gia; trở thành trung tâm đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong các lĩnh vực y học quân sự và y học chung của quốc gia và quốc tế.</p> <p>Tạp chí Y Dược học Quân sự là cơ quan ngôn luận thông tin về các hoạt động của Học viện Quân y, trực thuộc Ban Giám đốc Học viện; được cấp Giấy phép hoạt động báo chí số 345/GP-BVHTT ngày 08/8/2002 và xuất bản 02 tháng/kỳ. Trước xu thế hội nhập của thế giới, với mong muốn có thể trao đổi với các đồng nghiệp trên toàn thế giới về thành tựu nghiên cứu y học, Tạp chí Y Dược học Quân sự đã đề nghị Tổng cục Chính trị cho phép tạp chí được đưa các bài viết đã đăng tải lên mạng internet và đã được sự đồng ý của Thủ trưởng Tổng cục Chính trị (theo công văn số 440/VP của Văn phòng Tổng cục ngày 16/5/2005). Đây là bước phát triển quan trọng của Tạp chí Y Dược học Quân sự, tạo điều kiện cho tạp chí được trao đổi với các tạp chí có uy tín trên thế giới. Ngày 21/06/2006, Tạp chí Y Dược học Quân sự được cấp chỉ số quốc tế ISSN 1859 - 0748.</p> <p>Kể từ khi ra mắt bạn đọc số đầu tiên cho tới nay, Tạp chí Y Dược Quân sự đã được cấp phép sửa đổi nâng kỳ xuất bản lên 9 số/năm (Giấy phép hoạt động báo chí số 1149/GP-BTTTT năm 2012 và số 594/GP-BTTTT năm 2022) và các số Tạp chí đặc biệt cho các Hội nghị Khoa học của Học viện. Nhằm nâng cao chất lượng tạp chí hơn nữa, từ đầu năm 2022 Tạp chí đã xây dựng website riêng để xuất bản online và gắn chỉ số DOI (https://doi.org/10.56535) cho mỗi bài báo, đồng thời đã thực hiện phản biện kín 2 chiều trực tuyến, độc lập cho mỗi bài báo.</p> <p>Tạp chí Y Dược học quân sự luôn nỗ lực khẳng định thương hiệu của mình, đóng góp tích cực phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và điều trị. Tạp chí Y Dược học quân sự thực sự trở thành cơ quan ngôn luận về chuyên môn khoa học, đào tạo và điều trị của Học viện Quân y, sát cánh cùng các đơn vị trong đội hình Học viện viết nên những trang vàng thành tích hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành của Học viện Quân y.</p>https://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1559MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ BIẾN THIÊN NỒNG ĐỘ TACROLIMUS TRÊN NGƯỜI BỆNH GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC2025-09-04T07:53:18+00:00Chu Thị Kim PhươngNguyễn Thị CúcNguyễn Thế Cườngcuongicu@gmail.comNguyễn Thanh HiềnVũ Đình HòaMục tiêu: Phân tích đặc điểm sử dụng, biến thiên nồng độ và một số yếu tố ảnh hưởng đến sự biến thiên nồng độ Tacrolimus (TAC) trong một năm đầu sau ghép thận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả hồ sơ bệnh án của bệnh nhân (BN) ghép thận tại Khoa Thận lọc máu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, từ ngày 01/01/2019 đến 30/6/2023. Kết quả:Phân tích 274 hồ sơ bệnh án của 274 BN sau ghép thận điều trị ngoại trú. Liều dùng, nồng độ đáy (C0) và biến thiên trong cùng cá thể (IPV) về C0 TAC giảm dần theo thời gian. Phân tích hồi quy logistic, các yếu tố chính ảnh hưởng đến IPV cao (CV > 30%) gồm dùng đồng thời gián đoạn thuốc chống nấm nhóm azol (OR = 16,51; p < 0,001) và diltiazem (OR = 2,92; p = 0,002) so với sử dụng liên tục hoặc không sử dụng trong tháng đầu; hematocrit (OR = 0,86; p = 0,001) và C0/D (OR = 1,41; p < 0,001) sau ghép 2 - 6 tháng; chuyển đổi dạng thuốc TAC 2 lần/ngày và 1 lần/ngày so với không chuyển đổi (6 - 12 tháng; OR = 1,17; p = 0,004). Kết luận: Biến thiên C0 TAC trong cùng cá thể giảm dần theo thời gian sau ghép thận. Một số yếu tố làm IPV cao gồm dùng đồng thời không liên tục thuốc chống nấm nhóm azol và thuốc hạ áp nhóm diltiazem; hematocrit và chuyển đổi dạng chế phẩm TAC.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1551NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI ĐỘ CỨNG THẤT TRÁI BẰNG SIÊU ÂM ĐÁNH DẤU MÔ CƠ TIM Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH THẬN MẠN TÍNH GIAI ĐOẠN CUỐI TRƯỚC VÀ SAU GHÉP THẬN2025-09-08T07:39:47+00:00TS Phạm Vũ Thu Hàphamvuthuha293@gmail.comTS Nguyễn Thị Thu Hàdrthuha103@gmail.comMục tiêu:Khảo sát sự biến đổi độ cứng thất trái bằng siêu âm đánh dấu mô cơ tim (speckle tracking echocardiography - STE) ở bệnh nhân (BN) mắc bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối (end-stage kidney disease - ESKD)trước và sau ghép thận.Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 63 BN được chẩn đoán ESKD ghép thận tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 10/2024 - 4/2025, theo dõi sau ghép thận 1 tháng. Kết quả:Độ căng thành tâm trương (diastolic wall strain - DWS) trước và sau ghép thận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Độ cứng của thất trái sau ghép thận cải thiện rõ rệt so với trước ghép. Độ cứng của thất trái sau ghép ở nhóm lọc máu chu kỳ cao hơn có ý nghĩa so với nhóm điều trị bảo tồn khi đánh giá bằng cả 2 phương pháp doppler mô (tissue doppler imaging - TDI) và STE. DWS sau ghép giữa hai nhóm điều trị không nhận thấy sự khác biệt. Độ cứng của thất trái sau ghép ở nhóm lọc máu chu kỳ > 12 tháng cao hơn có ý nghĩa so với < 12 tháng khi đánh giá bằng cả 2 phương pháp TDI và STE. Kết luận: Sau ghép thận 1 tháng, độ cứng thất trái đo bằng 3 phương pháp (DWS và E/e’/LVEDV và E/LASr/LVEDV) có xu hướng cải thiện, phản ánh giảm độ cứng cơ tim. Các yếu tố như phương pháp điều trị trước ghép cũng như thời gian lọc máu chu kỳ cũng có thể ảnh hưởng đến độ cứng thất trái.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1644MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BIẾN THIÊN NỒNG ĐỘ CỦA THUỐC TACROLIMUS Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN2025-09-03T08:52:25+00:00BSCK2 Nguyễn Văn CườngBSCK2 Nguyễn Việt KhoaNguyễn Huy HoàngTrương Quý Kiêndrquykientruong@gmail.comMục tiêu: Khảo sát nồng độ, sự biến thiên nồng độ của thuốc Tacrolimus (TAC) và phân tích mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN) sau ghép thận từ tháng thứ 7 - 12. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 108 BN sau ghép thận được tính hệ số biến thiên nồng độ TAC dựa trên định lượng nồng độ đáy (C0) của thuốc TAC ở các thời điểm từ tháng thứ 7 - 12 sau ghép. Hệ số biến thiên từng cá thể (intra-patient variability - IPV) về nồng độ TAC của người bệnh dựa trên nguyên tắc tứ phân vị. Kết quả:IPV trung vị của nhóm nghiên cứu giai đoạn tháng thứ 7 - 12 là 19,0%, thấp nhất là 6,84% và cao nhất là 57,84%. Tỷ lệ BN có IPV cao chiếm 13,9%. IPV liên quan không có ý nghĩa với tuổi, giới tính, mức lọc cầu thận (eGFR), liều Mycophenolate Mofetil (MMF), nồng độ Hemoglobin và protein niệu xuất hiện sau ghép, với p > 0,05. IPV liên quan có ý nghĩa với nồng độ đáy TAC ở các thời điểm tháng thứ 8, 9, 10 (p < 0,05). Kết luận: IPV của nhóm nghiên cứu giai đoạn 6 tháng (tháng 7 - 12) dao động nhiều và liên quan có ý nghĩa với nồng độ đáy ở thời điểm tháng thứ 8, 9, 10.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1574KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ GLUCAGON-LIKE PEPTIDE-1 HUYẾT TƯƠNG Ở NGƯỜI BỆNH SAU GHÉP THẬN2025-08-26T03:10:59+00:00Nguyễn Tiến SơnNguyễn Dung Thị Thùybsdunga12@gmail.comPGS Lê Việt ThắngPGS Nguyễn Minh NúiMục tiêu: Khảo sát nồng độ glucagon-like peptide-1 (GLP-1) huyết tương và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở người bệnh (NB) sau ghép thận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 81 NB sau ghép thận và 53 người khỏe mạnh, tương ứng tuổi và giới tính tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 10/2021 - 12/2023. Định lượng nồng độ GLP-1 huyết tương sau ghép thận, có so sánh với nhóm chứng. Kết quả: Nồng độ GLP-1 của nhóm nghiên cứu là 8,82 pmol/L, thấp hơn so với nhóm chứng người khỏe mạnh là 10,7 pmol/L, với p < 0,001. Tỷ lệ giảm nồng độ GLP-1 ở nhóm sau ghép là 8,6%. Nồng độ GLP-1 huyết tương có tương quan nghịch với tuổi, thời gian sau ghép, độ nhạy insulin (HOMA-S), tương quan thuận với kháng insulin (HOMA-IR), với p < 0,05. Insulin là yếu tố có giá trị tiên đoán giảm nồng độ GLP-1 huyết tương với OR = 0,578, p < 0,05. Kết luận: Ở NB sau ghép thận có giảm nồng độ GLP-1 huyết tương, tỷ lệ giảm nồng độ GLP-1 là 8,6%.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1508KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NỒNG ĐỘ ĐÁY TACROLIMUS Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN TRÊN 1 NĂM TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1032025-09-04T07:40:12+00:00Nguyễn Minh HiếuMinhhieu728198@gmail.comQuản Thị TâmNguyễn Văn ĐứcĐỗ Mạnh HàVũ Kim KhánhLê Việt ThắngMục tiêu:Khảo sát đặc điểm nồng độ đáy (C0) của tacrolimus C0 (TAC) và mối liên quan với một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN) ghép thận > 1 năm. Phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 532 BN sau ghép thận > 1 năm, sử dụng phác đồ ức chế miễn dịch có TAC từ tháng 01 - 9/2024. Thu thập nồng độ C0 của TAC và các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng để phân tích đặc điểm và đánh giá mối liên quan.Kết quả: Tỷ lệ BN có nồng độ C0 của TAC đạt mục tiêu theo khuyến cáo chiếm 73,68% (392/532 BN), cao hơn với 1,32%, thấp hơn với 25,0%.Thời gian sau ghép (OR = 1,167, p < 0,001) là yếu tố liên quan có ý nghĩa với bất thường nồng độ C0 của TAC. Kết luận:Đa số BN ghép thận > 1 năm đạt được nồng độ C0 của TAC trong khoảng khuyến cáo. Thời gian sau ghép (OR = 1,167, p < 0,001) là yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến bất thường nồng độ C0 của TAC.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1553ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ TẾ BÀO MÁU NGOẠI VI, TỶ LỆ BẠCH CẦU NEUTROPHIL/LYMPHO VÀ TỶ LỆ TIỂU CẦU/LYMPHO Ở NGƯỜI BỆNH SAU GHÉP THẬN TRONG 6 THÁNG ĐẦU TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1032025-08-18T01:47:54+00:00Nguyễn Thị Thu HàNguyễn Văn ĐứcHoàng Phúc Khămkhamnephrologist@gmail.comMục tiêu:Khảo sát sự thay đổi của một số chỉ số tế bào máu ngoại vi và tỷ lệ bạch cầu neutrophil/lympho (NLR), tỷ lệ tiểu cầu/lympho (PLR) ở bệnh nhân (BN) trước và trong vòng 6 tháng đầu sau ghép thận. Phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu, mô tả trên 258 BN được ghép thận tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 01/2022 - 4/2025. Thu thập đặc điểm lâm sàng, công thức máu thời điểm ngay trước ghép và hàng tháng trong 6 tháng đầu sau ghép, đánh giá mối liên quan. Kết quả: Hồng cầu, huyết sắc tố, HCT tăng dần từ tháng thứ nhất sau ghép. Tỷ lệ BN thiếu máu và mức độ thiếu máu giảm dần, trước ghép là 82,6%, sau ghép thận 6 tháng còn 15,5%. Số lượng tiểu cầu tăng so với trước ghép, 218,61 ± 70,3 G/L với 231, 98 ± 60,41 G/L, p < 0,05. Số lượng lympho tăng so với trước ghép, 1,55 ± 0,69 G/L với 1,75 ± 0,81 G/L, p < 0,05. NLR giảm so với trước ghép, 3,07 (2,26 - 4,45) với 2,72 (1,93 - 3,75), p < 0,05. Kết luận:Trong 6 tháng đầu sau ghép thận, các chỉ số tế bào máu ngoại vi cải thiện so với thời điểm trước ghép.Việc theo dõi tế bào máu ngoại vi sau ghép giúp phát hiện sớm các biến chứng và điều chỉnh kịp thời phác đồ điều trị.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1544NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG BỆNH NHÂN GHÉP THẬN BẰNG BẢNG CÂU HỎI SF-362025-08-18T08:17:45+00:00Nguyễn Văn Đứcnguyenvanducyhhk@gmail.comLê Việt ThắngĐỗ Mạnh HàQuản Thị TâmNguyễn Minh HiếuHoàng Phúc KhămMục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống (quality of life - QoL) bệnh nhân (BN) sau ghép thận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 172 BN ghép thận, theo dõi tại Bệnh viện Quân y 103. Các đối tượng được khảo sát QoL bằng bộ câu hỏi SF-36. Kết quả: Điểm SF-36 trung bình của BN sau ghép thận: 70,94 ± 15,32, điểm sức khỏe thể chất: 69,67 ± 17,51, điểm sức khỏe tinh thần: 72,21 ± 16,01. Số BN có điểm SF-36 > 75 chiếm 48,8%, điểm SF-36 từ 50 - 75 chiếm 39,5%, điểm SF-36 từ 25 - 50 chiếm 11,6%, không có BN có điểm SF-36 < 25. Nhóm BN bị nhiễm virus BK, CMV, HBV, HCV, tăng huyết áp (THA), đái tháo đường (ĐTĐ), từng điều trị thải ghép thận cấp, tăng creatinine máu có điểm SF-36 thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nhóm còn lại. Điểm SF-36 giữa nam và nữ không có sự khác biệt (p > 0,05). Kết luận: QoL trung bình ở BN ghép thận đạt mức khá. Nhiễm virus BK, CMV, HBV, HCV, THA, ĐTĐ, từng điều trị thải ghép thận cấp và giảm chức năng thận ghép làm giảm QoL ở BN ghép thận.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1575KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA KHÁNG INSULIN VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG MỚI KHỞI PHÁT SAU GHÉP THẬN2025-08-26T03:14:26+00:00Nguyễn Dung Thị Thùybsdunga12@gmail.comPGS Lê Việt ThắngPGS Lê Minh NúiNguyễn Tiến SơnMục tiêu: Khảo sát tình trạng kháng insulin và mối liên quan giữa kháng insulin với một số đặc điểm ở người bệnh (NB) đái tháo đường mới khởi phát sau ghép thận (new-onset diabetes after kidney transplantation - NODAT). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 81 NB NODAT chẩn đoán lần đầu, chưa điều trị và 53 người đối chứng khỏe mạnh, tương đồng tuổi và giới tính tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 10/2021 - 12/2023. Thu thập đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, tính các chỉ số kháng insulin theo mô hình HOMA2 bao gồm kháng insulin (HOMA2-IR), độ nhạy insulin (HOMA2-S), chức năng tế bào beta (HOMA2-B). Kết quả: Giá trị trung vị của chỉ số HOMA2-IR ở nhóm NODAT là 0,95 cao hơn nhóm chứng là 0,7 (p < 0,001). Ngược lại, HOMA2-S và HOMA2-B thấp hơn ở nhóm NODAT so với nhóm chứng thường (p < 0,001). Tỷ lệ tăng HOMA2-IR là 18,5%, giảm HOMA2-S là 19,8%, giảm HOMA2-B là 27,2% ở nhóm NODAT. Ở nhóm NODAT thừa cân béo phì, tăng chu vi vòng bụng có tỷ lệ NB kháng insulin tăng, HOMA2-S giảm so với nhóm không thừa cân béo phì, không tăng chu vi vòng bụng, với OR lần lượt là 6,803 và 7,0 (p < 0,05). Kết luận: Kháng insulin ở NB NODAT có liên quan đến tăng chu vi vòng bụng và BMI.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1549ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM THIẾU MÁU TRONG 6 THÁNG ĐẦU SAU GHÉP VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1032025-08-29T00:31:59+00:00Thạc sĩ Phan Bá Nghĩaphannghiaba@gmail.comPGS, TS Le Viet Thanglethangviet@yahoo.co.ukTS Nguyễn Thị Thu Hàdrthuha103@gmail.comMục tiêu: Khảo sát tỷ lệ thiếu máu trong 6 tháng đầu và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN) sau ghép thận. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu tại các thời điểm sau ghép trong vòng 6 tháng trên 258 BN được ghép thận thành công từ tháng 01/2022 - 01/2025 tại Bệnh viện Quân y 103 (BVQY103). Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu sau ghép thận tại các thời điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng giảm dần, lần lượt là 92,24%, 68,6%, 39,53% và 23,26%; trong đó, chủ yếu là thiếu máu đẳng sắc mức độ nhẹ, kích thước hồng cầu bình thường; tỷ lệ xuất hiện đa hồng cầu là 5,04%. Ở nhóm BN nữ hoặc có mức lọc cầu thận (MLCT) tại thời điểm tháng thứ 6 sau ghép < 60 mL/phút có nồng độ hemoglobin thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn lại, p < 0,05. Tuổi của BN và MLCT sau ghép là các yếu tố độc lập liên quan với thiếu máu sau ghép, với OR lần lượt là 0,97 và 0,96 (p < 0,05).Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu trong vòng 6 tháng đầu sau ghép thận khá cao, giảm dần trong 6 tháng và ở mức 23,26% ở tháng thứ 6, có liên quan với giới tính nữ, MLCT và tuổi của BN ghép thận.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1534HIẾN MÔ - TẠNG KHI CHẾT NÃO HAY NGỪNG TUẦN HOÀN: KẾT QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐIỀU PHỐI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY2025-08-14T07:50:31+00:00Dư Thị Ngọc Thuduthingocthubvcr@gmail.comTrần Thanh LinhNguyễn Văn NhiềuNguyễn Anh TàiTrầm Minh ToànHoàng Văn SỹLê Minh HiểnBùi Văn TuấnVương Vân HườngNguyễn Việt Đăng KhoaLâm Văn MinhVăng Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Kim YếnThân Thị LệNguyễn Tấn ĐạtPhạm Thị Ngọc ThảoLâm Việt TrungNguyễn Quốc BìnhTrần Ngọc SinhPhạm Thanh ViệtNguyễn Tri ThứcMục tiêu: Khảo sát kết quả hoạt động hiến mô tạng từ người chết não, ngừng tuần hoàn tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) từ tháng 6/2024 - 7/2025. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu hoạt động điều phối từ tháng 6/2014 - 7/2025, gồm ba nhánh riêng với các quy trình phối hợp chặt chẽ: Nhánh quản lý người hiến, quản lý người bệnh chờ ghép, thông tin truyền thông. Kết quả: Hoạt động điều phối tại BVCR đạt được các kết quả như sau: Nhánh điều phối quản lý người hiến tiếp nhận được 42 người hiến; nhánh quản lý người bệnh chờ ghép nhận được 183 bệnh nhân (BN); nhánh truyền thông gồm nhiều bài viết phổ cập kiến thức cho cộng đồng về ghép mô - tạng. Kết luận: Để có thể phát triển được chương trình hiến - ghép mô - tạng từ người hiến chết não hay ngừng tuần hoàn bảo đảm tính minh bạch và công bằng, hệ thống điều phối phải có các quy trình chuyên môn, phối hợp giữa các chuyên khoa chặt chẽ và rõ ràng để bảo đảm tính khoa học, không vi phạm y đức, luật pháp.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1643GHÉP GAN CẤP CỨU Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN DO VIRUS VIÊM GAN B CÓ HỘI CHỨNG GAN THẬN: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG2025-09-03T08:49:52+00:00Thạc sĩ Nguyễn Thị NgaTS Đỗ Thanh HòaThạc sĩ Hoàng Quốc LợiTS Nguyễn Huy HoàngTrương Quý Kiêndrquykientruong@gmail.comMục tiêu: Trình bày 1 ca lâm sàng bệnh nhân (BN) xơ gan do viêm gan virus B (HBV) có hội chứng gan thận thể tổn thương thận cấp (Hepatorenal Syndrome-Acute Kidney Injury - HRS-AKI) được điều trị bằng lọc máu, thay huyết tương và ghép gan; từ đó thảo luận vấn đề chẩn đoán, điều trị và tiên lượng phục hồi chức năng thận sau ghép.Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo mô tả ca bệnh có HRS-AKI được ghép gan cấp cứu. Kết quả: BN nam, 41 tuổi, HBV mạn tính không tuân thủ điều trị, vào viện trong tình trạng ý thức lơ mơ, cổ trướng, tiểu ít. Xét nghiệm cho thấy có suy chức năng gan tiến triển nặng, suy chức năng thận. BN được chẩn đoán HRS-AKI sau khi loại trừ các nguyên nhân tổn thương thận cấp (Acute Kidney Injury - AKI) khác. Điều trị thuốc co mạch và albumin thất bại, tiến hành lọc máu liên tục, thay huyết tương. Ghép gan thực hiện sau 10 ngày nhập viện và sau ghép gan 5 ngày chức năng gan phục hồi tốt; chức năng thận cải thiện dần sau ghép, không cần lọc máu. Kết luận: Trường hợp này cho thấy ghép gan cấp cứu là lựa chọn tối ưu và có thể cứu sống BN HRS-AKI khi điều trị nội khoa thất bại, đồng thời cho thấy tầm quan trọng của chẩn đoán sớm và chuyển tuyến kịp thời.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1711ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỒI SỨC SAU GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1752025-09-29T01:35:55+00:00Phạm Quách Tuấn Anhbs.tuananh.bv175@gmail.comTS Trần Quốc ViệtTS Nguyễn Việt CườngBSCKII Hồ Ngọc PhátBS Dương Minh TúBS Hồ Thị Cẩm ViBSCKI Lưu Viết TínhThS Nghiêm Tấn PhúMục tiêu:Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá biến chứng ở giai đoạn hồi sức sau ghép thận từ người hiến sống tại Bệnh viện Quân y 175. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả tiến hành trên 50 người bệnh (NB) được phẫu thuật ghép thận từ người cho sống tại Khoa Hồi sức Ngoại, Bệnh viện Quân y 175. Thu thập dữ liệu bệnh án ở NB ≥ 18 tuổi sau ghép thận từ tháng 7/2023 - 6/2025. Kết quả: Tuổi trung bình là 42,3 ± 12,1; nam giới chiếm 68%; BMI trung bình là 21,35 ± 2,52 kg/m². Hầu hết có bệnh nền mạn tính và thời gian lọc máu trước ghép dài. Sau mổ, không ghi nhận biến chứng hô hấp nặng. Có 2% cần dùng thuốc vận mạch. Tăng huyết áp cần điều trị gặp ở 86% trường hợp. Đa niệu và rối loạn điện giải xuất hiện sớm sau mổ nhưng cải thiện nhanh, nồng độ ure và creatinine gần bình thường sau 3 ngày. Có 6 NB (12%) ghi nhận biến chứng bao gồm 2 ca chảy máu phải mổ lại, 2 ca tụ dịch bạch huyết, 2 ca thải ghép cấp. Kết luận: Ghép thận từ người cho sống trong giai đoạn hồi sức sau mổ còn tiềm ẩn nhiều biến chứng. Theo dõi sát sau mổ là cần thiết để phát hiện, xử trí kịp thời, góp phần nâng cao kết quả điều trị.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1558NỐI NIỆU QUẢN THẬN GHÉP VỚI NIỆU QUẢN TỰ NHIÊN Ở NGƯỜI NHẬN THẬN CÓ BÀNG QUANG TEO DO KHÔNG SỬ DỤNG: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG2025-08-27T00:17:12+00:00Hoàng Thị ĐiểmĐỗ Ngọc SơnNguyễn Thế Cườngcuongicu@gmail.comBệnh nhân (BN) chạy thận nhân tạo lâu năm thường có bàng quang teo do không sử dụng; điều này gây thách thức lớn đối với tái tạo đường niệu trong ghép thận. Chúng tôi báo cáo trường hợp đầu tiên được phẫu thuật nối niệu quản thận ghép với niệu quản tự nhiên ở người nhận có bàng quang teo do không sử dụng với dung tích bàng quang là 30mL. Kết quả sau 29 tháng theo dõi, chức năng thận ổn định, bàng quang giãn nở tốt với dung tích > 290mL, thận ghép thấy giãn nhẹ đài bể thận (6 - 9mm), tuy nhiên không cần can thiệp và không gây ứ nước thận tự nhiên. Cân nhắc chỉ định nối niệu quản với niệu quản ở những BN có bàng quang teo do không sử dụng để mở rộng cơ hội cho nhiều BN lọc máu kéo dài có thể ghép thận.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1547KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT NỘI SOI HỖ TRỢ CẮT THẬN PHẢI TỪ NGƯỜI HIẾN SỐNG KẾT HỢP ĐƯỜNG MỞ NHỎ DƯỚI BỜ SƯỜN CLAMP BÊN TĨNH MẠCH CHỦ DƯỚI2025-09-05T11:01:49+00:00PDS.TS Nguyễn Phú Việtphuvietnguyen0908@gmail.comThS Nguyễn Nhật AnThS Cao Quyết ThắngThS Đào Văn NhậtNguyễn Anh TuấnMục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật nội soi hỗ trợ cắt thận phải từ người hiến sống kết hợp với đường mở nhỏ dưới bờ sườn, clamp bên tĩnh mạch chủ dưới. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu trên 60 người hiến thận sống được phẫu thuật tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 01/2024 - 5/2025. Kết quả: Tuổi trung bình của người hiến là 34,5 ± 16,7 (22 - 59). BMI trung bình là 23,7 ± 4,3. Có 10 ca có 2 động mạch, 6 ca có 2 tĩnh mạch. Không có tai biến trong mổ nặng. Thể tích máu mất trung bình là 56,1 ± 34,01mL. Thời gian mổ trung bình là 90,1 ± 21,2 phút; 58/60 ca với thận có nước tiểu sớm, 59 ca chức năng thận về bình thường sau 3 tuần; 1 trường hợp chậm chức năng thận ghép, phải lọc máu hỗ trợ do hẹp tĩnh mạch thận ghép, nồng độ creatinine máu khi ra viện là 140 μmol/L. Kết luận: Kỹ thuật nội soi hỗ trợ cắt thận phải sử dụng đường mở nhỏ dưới bờ sườn để clamp bên tĩnh mạch chủ dưới là khả thi, an toàn và hiệu quả.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1710ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TRONG 3 THÁNG ĐẦU SAU GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1752025-10-01T09:08:53+00:00Nguyễn Văn Khẩnbs.nguyenvankhan@gmail.comNguyễn Quang HuyDrquanghuyb2a@gmail.comNguyễn Trương Trọng NghĩaNguyentruongtrongnghia0702@gmail.comPhạm Minh Đứcducminhp122@gmail.comNguyễn Phú Quốcnpquoc.cki.ngoainieu25@ump.edu.vnTiến sĩ Trần Quốc Việtbsviet175@gmail.comTiến sĩ Nguyễn Việt Cườngcuongnguyen175@gmail.comMục tiêu:Đánh giá kết quả trong 3 tháng đầu sau ghép thận tại Bệnh viện Quân y 175. Phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu tiến cứu, quan sát, mô tả trên 70 bệnh nhân (BN) (68 BN từ nguồn hiến sống, 2 BN từ người hiến chết não) được ghép thận trong thời gian từ tháng 7/2023 - 7/2025. Thời gian theo dõi là 3 tháng đầu sau ghép. Kết quả: 100% BN đều có nước tiểu tại bàn mổ và có lượng nước tiểu ổn định sau ghép 1 tháng, phần lớn BN có nồng độ ure và creatinine trở về bình thường sau ghép 1 tuần, ổn định sau 3 tháng. Tỷ lệ biến chứng là 21,15% (có 2,85% chảy máu sau mổ, 4,2% tụ dịch bạch huyết quanh thận ghép, 4,2% thải ghép cấp, 5,7% nhiễm khuẩn niệu), các biến chứng đều được xử lý thành công. Kết luận:Bước đầu đánh giá phẫu thuật ghép thận cho kết quả tốt, tất cả BN đều có chức năng thận ghép hoạt động tốt sau 3 tháng, tỷ lệ biến chứng ở mức trung bình (21,15%) và đều được xử trí hiệu quả.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1540KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU KỸ THUẬT GHÉP GAN KÈM THAY ĐOẠN TĨNH MẠCH CHỦ DƯỚI THEO KỸ THUẬT CỔ ĐIỂN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC2025-08-15T00:43:47+00:00Trần Hà PhươngDương Đức HùngNinh Việt KhảiNguyễn Quang Nghĩanghianguyenvduc@gmail.comLưu Quang ThùyĐào Thị Kim DungĐỗ Hải Đăngdangsp94@gmail.comNguyễn Tiến QuyếtMục tiêu:Đánh giá hiệu quả và an toàn của kỹ thuật ghép gan cổ điển cải tiến, tập trung vào tối ưu trình tự thả clamp ở các bệnh nhân (BN) ghép gan tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 17 BN ghép gan từ tháng 10/2024 - 4/2025 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Đánh giá chỉ tiêu về lâm sàng, cận lâm sàng, thời gian phẫu thuật, lượng máu mất, truyền máu, kết quả sớm sau mổ, tỷ lệ tử vong trong 90 ngày. Kết quả: Thời gian phẫu thuật trung bình là 366,5 ± 59,9 phút, thời gian thiếu máu nóng là 24,8 ± 5,0 phút, lượng máu mất trung vị là 1.200mL. Biến chứng nội khoa (nhiễm trùng) chiếm 29,4%, tỷ lệ hội chứng sau tái tưới máu (post-referfusion syndrome - PRS) là 17,6%. Tỷ lệ tử vong là 90 ngày là 11,8% (2 BN), không ghi nhận thải ghép cấp hoặc chậm chức năng mảnh ghép. Kết luận: Kỹ thuật ghép gan cổ điển cải tiến cho thấy tính khả thi, với thời gian thiếu máu nóng ngắn, lượng máu mất giảm và tỷ lệ biến chứng chấp nhận được. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá hiệu quả lâu dài.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1567ÁP DỤNG THANG ĐIỂM CLAVIEN-DINDO TRONG ĐÁNH GIÁ BIẾN CHỨNG NGOẠI KHOA BỆNH NHÂN GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO CHẾT NÃO GIAI ĐOẠN 2010 - 20242025-09-04T07:38:36+00:00Lê Nguyên Vũnguyenvu.urologue@gmail.comĐỗ Ngọc SơnPhùng Duy Hồng SơnMan Thị HươngPhạm Thị Vân AnhNguyễn Quang NghĩaMục tiêu: Mô tả các biến chứng ngoại khoa sau ghép thận và cách xử trí tương ứng, phân loại theo thang Clavien-Dindo. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả trên 213 trường hợp (TH) ghép thận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, ghi nhận các biến chứng ngoại khoa và xử trí trong giai đoạn 2010 - 2024. Các bệnh nhân (BN) đều có hồ sơ đầy đủ, ghi nhận các biến chứng ngoại khoa và cách xử trí. Kết quả:Có 27 TH gặp biến chứng ngoại khoa/213 BN. Phân bố theo Clavien-Dindo như sau: Độ II (2 ca), độ IIIa (9 ca), độ IIIb (15 ca), độ V (1 ca). Không ghi nhận biến chứng độ I, IVa hay IVb. Các phương pháp xử trí tập trung vào các biến chứng mạch máu và tiết niệu bao gồm mổ tạo hình lại niệu quản - bàng quang, nối niệu quản bể thận với niệu quản cũ và xử lý miệng nối hẹp ĐM trong mổ bằng kỹ thuật rửa trong mổ. Kết quả sau mổ và lâu dài, thận có chức năng ổn định. Kết luận: Biến chứng ngoại khoa sau ghép thận chủ yếu ở độ IIIa - IIIb. Việc phát hiện sớm và xử trí kịp thời là rất quan trọng.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sựhttps://jmpm.vn/index.php/jmpm/article/view/1713KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI QUA Ổ BỤNG CẮT THẬN CHO GHÉP TỪ NGƯỜI HIẾN SỐNG TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 1752025-09-23T09:08:59+00:00Ths Trần Hoài Namtrannamglht@gmail.comTS Nguyễn Việt Cườngphdcuongnguyen175@gmail.comTS Trần Quốc ViệtBSCK2 Phạm Đức VinhThs Đinh Quang TínThs Nguyễn Nhật LinhBS Nguyễn Phú QuốcBS Lưu Hồ Đình ĐứcDrluulhd@gmail.comMục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật phẫu thuật nội soi qua ổ bụng được áp dụng tại Bệnh viện Quân y 175. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả trên 60 trường hợp được phẫu thuật nội soi qua ổ bụng cắt thận cho ghép từ người hiến sống từ tháng 6/2023 - 6/2025. Các biến số theo dõi gồm đặc điểm bệnh nhân (BN), thận hiến, thời gian phẫu thuật, lượng máu mất, tai biến, biến chứng và chức năng thận còn lại sau hiến. Kết quả: 100% phẫu thuật nội soi lấy thận thành công, tuổi trung bình là 35,4, BMI trung bình là 23,08 kg/m². Có 47 thận trái, 13 thận phải; 43 trường hợp có 1 động mạch thận, 17 trường hợp có 2 động mạch. Thời gian phẫu thuật trung bình là 168,72 phút, thời gian thiếu máu nóng trung bình là 4,67 phút, mất máu không đáng kể. Thận lấy ra đảm bảo giải phẫu, 100% thận ghép có nước tiểu ngay tại bàn phẫu thuật. 1 trường hợp chảy máu chân trocar sau phẫu thuật cần phải can thiệp. Kết luận: Phẫu thuật nội soi qua phúc mạc lấy thận để ghép là kỹ thuật an toàn và hiệu quả.Copyright (c) 2025 Tạp chí Y Dược học Quân sự